Việt Nam là một trong những khu vực dễ bị tổn thương nhất do biến đổi khí hậu và các hiện tượng khí hậu khắc nghiệt như lũ quét, hạn hán. Do đó, nghiên cứu của Nguyễn Thị Lan Hương và nhóm tác giả với tiêu đề “Assessment of farm households’ perception, beliefs and attitude toward climatic risks: A case study of rural Vietnam” đăng trên tạp chí PLoS ONE tập 16, số 12 (2021) nhằm khám phá niềm tin, nhận thức rủi ro, thái độ thích ứng và các biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu của nông dân mà họ hiện đang áp dụng để đối phó với rủi ro khí hậu.
Sử dụng phương pháp hồi quy bình phương nhỏ nhất thông thường và phương pháp hồi quy logistic để phân tích bộ dữ liệu thu thập thông qua phỏng vấn 816 nông dân từ 7 tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của niềm tin, nhận thức và thái độ thích ứng với biến đổi khí hậu đối với hành vi thích ứng của nông dân. Kết quả cho thấy nông dân trong khu vực nghiên cứu đang sử dụng các chiến lược quản lý rủi ro khí hậu phổ biến nhất bao gồm áp dụng công nghệ mới, điều chỉnh lịch thời vụ và đa dạng hóa sản xuất. Các hộ nông dân đều rất lo ngại về rủi ro liên quan đến xói mòn và rửa trôi đất, tiếp theo là áp lực kéo dài mùa khô và hạn hán. Các đối tượng tham gia nghiên cứu cũng báo cáo về sự giảm lượng mưa và tăng nhiệt độ, tần suất và tỷ lệ xuất hiện các hiện tượng khí hậu khắc nghiệt khác. Một mối quan hệ có ý nghĩa tích cực đã được tìm thấy giữa các hoạt động quản lý nông dân và các cộng đồng sinh thái.
Nhận thức và thái độ về rủi ro đối với thay đổi khí hậu là những yếu tố cần thiết đối với các hộ nông dân ở miền núi phía Bắc. Căng thẳng khí hậu liên quan đến căng thẳng thể chế và kinh tế - xã hội ảnh hưởng nghiêm trọng đến cơ sở sinh kế của các hộ nông dân, do đó một kế hoạch thích ứng với biến đổi khí hậu toàn cầu là cần thiết để đảm bảo sinh kế của nông dân.
Một số nghiên cứu đã sử dụng thuật ngữ “Điểm nghẽn quan trọng nhất” để mô tả nhận thức về rủi ro và nhận thức về năng lực thích ứng với sự biến đổi khí hậu. Quá trình đưa ra các quyết định thích ứng hoặc giảm thiểu bị ảnh hưởng bởi nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó trải nghiệm với các tác động của biến đổi khí hậu là bước khởi đầu quan trọng trong đánh giá rủi ro. Nói cách khác, khi mọi người nhận thấy bằng chứng về tác động của biến đổi khí hậu, họ sẽ lo lắng hơn về rủi ro khí hậu và thích ứng. Theo cách tiếp cận hành vi cho thấy các hành vi thích ứng không chỉ được thúc đẩy bởi quan điểm thích ứng với biến đổi khí hậu mà còn được thúc đẩy bởi các yếu tố cảm nhận khác. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã phát hiện ra mối liên quan giữa các thái độ thích ứng với rủi ro và các kỹ thuật đối phó rủi ro đang được các hộ nông dân ở miền núi phía Bắc sử dụng. Nghiên cứu tiến hành khám phá hai câu hỏi nghiên cứu sau:
Câu hỏi 1: Người nông dân miền Bắc đang thực hiện những chiến lược khí hậu nào (chiến lược thích ứng)?
Giả thuyết H1 được đưa ra là: Với sức mạnh lan rộng của khoa học và công nghệ có lợi cho nông nghiệp sản xuất, hầu hết nông dân thích ứng với công nghệ mới trong sản xuất như một kỹ thuật thích ứng và đa dạng hóa sản xuất.
Câu hỏi 2: Niềm tin, nhận thức về biến đổi khí hậu, nhận thức và thái độ thích ứng của nông dân ảnh hưởng đến hành vi thích nghi của họ như thế nào?
Giả thuyết H2a được đưa ra: Các hộ nông dân coi sự xuất hiện của biến đổi khí hậu chủ yếu do các hoạt động của con người thường lo lắng về tác động của biến đổi khí hậu hơn so với các hộ nông dân không tin vào ảnh hưởng của thiên tai. H2b được đưa ra: Niềm tin, nhận thức và thái độ đối với rủi ro khí hậu và sự thích ứng của các nông hộ có ảnh hưởng đến việc thực hiện các kỹ thuật thích ứng với khí hậu của họ.
Nghiên cứu sử dụng hồi quy logistic để kiểm tra các quyết định nhị phân cho việc áp dụng cụ thể. Phép tính bình phương nhỏ nhất thông thường (OLS) được áp dụng để dự đoán việc áp dụng 10 kỹ thuật thích ứng giải thích các yếu tố quan trọng như thái độ của nông dân đối với rủi ro, niềm tin của nông dân về biến đổi khí hậu, thái độ thích ứng và những yếu tố khác thiết lập hành vi thích ứng của nông dân. Điểm trung bình của tất cả các mức độ áp dụng, từ không thực hiện và không có kế hoạch đến thực hiện như một kỹ thuật đối phó rủi ro dài hạn hoặc ngắn hạn được ước tính cho mỗi người tham gia và được sử dụng làm biến phụ thuộc trong phân tích. Bằng cách mô tả dữ liệu khảo sát, mô hình thống kê thứ bậc phù hợp hơn được sử dụng để phân tích dữ liệu khảo sát này. Các biến khác (biến độc lập) được xem xét trong nghiên cứu này là nhận thức rủi ro của nông dân, niềm tin và thái độ thích ứng của nông dân, chủ hộ và các đặc điểm của chủ hộ như tuổi, giới tính, khả năng tiếp cận dịch vụ, trình độ học vấn và khả năng tiếp cận tín dụng của họ.
Nhóm tác giả cũng đã xem xét các yếu tố giải thích việc áp dụng các kỹ thuật thích ứng cụ thể. Mô hình hồi quy logistic thứ bậc được sử dụng để phân tích dữ liệu cụ thể cho 5 chiến lược mà hầu hết các hộ nông dân lựa chọn. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã tính toán tỷ lệ chênh lệch để định lượng các tác động của nhận thức rủi ro, niềm tin, thái độ đối với quyết định thích ứng cụ thể của nông dân. Các biến số như tuổi của người tham gia, giới tính và trình độ học vấn đã được chọn để phân tích hồi quy khi phù hợp.
Nông dân đã được hỏi về các chiến lược quản lý rủi ro của họ để đối phó với rủi ro thời tiết và khí hậu, và các câu hỏi liên quan đến biện pháp đối phó rủi ro của họ. Các chiến lược thích ứng như áp dụng công nghệ mới, đa dạng hóa cây trồng vật nuôi, thực hiện các biện pháp bảo vệ đất, điều chỉnh kỹ thuật canh tác, quản lý sử dụng nước được áp dụng rộng rãi. Hầu hết nông dân đều hiểu biết về các chiến lược thích ứng nhưng chỉ thực hiện được một phần. Nói cách khác, họ không thực hiện chúng một cách đầy đủ như một chiến lược quản lý rủi ro dài hạn hoặc ngắn hạn.
Theo H2a, người ta dự kiến ước tính mối quan hệ giữa mức độ tin tưởng của nông hộ vào sự biến đổi khí hậu (trong đó: 1 = sự biến đổi khí hậu không xảy ra và 2 = sự biến đổi khí hậu đang xảy ra và được kích hoạt chủ yếu do các hoạt động của con người) và cảm nhận của họ về khí hậu rủi ro đối với sản xuất của chính họ. Phương pháp tương quan thứ bậc đã được sử dụng để kiểm tra H2a. Các hệ số tương quan của Kendall và phản ứng nhận thức rủi ro với các kỳ vọng cho thấy rủi ro được nhận thức có mối quan hệ đáng kể với niềm tin về biến đổi khí hậu cao hơn do các hoạt động của con người.
Phân tích hồi quy chỉ cho thấy 13% sự khác biệt về điểm số thích nghi, nhưng một biến giải thích cho thấy tỷ lệ ý nghĩa cao hơn. Trình độ học vấn, độ tuổi, giới tính và khả năng tiếp cận tín dụng không liên quan đáng kể đến hành vi thích ứng của nông dân. Mặt khác, các dịch vụ tiếp cận có ý nghĩa tích cực và có ý nghĩa đối với hành vi thích ứng của nông dân.
Phát hiện của nhóm tác giả cho thấy nhu cầu của nghiên cứu định tính và định lượng chuyên sâu để hiểu nông dân nghĩ như thế nào về các chiến lược thích ứng và biến đổi khí hậu. Cần phải nghiên cứu mức độ sẵn sàng chi trả cho các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu và các yếu tố ảnh hưởng của nó, đồng thời xem xét tại sao nông dân không coi chương trình bảo hiểm là một chiến lược quản lý rủi ro dài hạn cũng như thái độ rủi ro đối với việc chủ động cải tiến công nghệ có ảnh hưởng đến hành vi thích ứng như thế nào. Thực tế là các sự kiện khí hậu có tác động nghiêm trọng đến nguồn lực sinh kế của các hộ nông dân ở miền núi phía Bắc. Do đó, cần phải cải thiện một cách tiếp cận hoàn chỉnh về thích ứng với biến đổi khí hậu để giảm thiểu tính dễ bị tổn thương và nâng cao năng lực thích ứng của các hộ nông dân. Kết quả nghiên cứu cho thấy, do sự khác biệt về khí hậu trong khu vực nghiên cứu, các phương pháp tiếp cận thích ứng phi nông nghiệp và nông trại cần phải xem xét các bối cảnh địa phương để có những tiếp cận phù hợp sinh thái. Tiếp cận các dịch vụ tín dụng, đào tạo và hướng dẫn phát triển kỹ năng cũng rất quan trọng để đối phó với rủi ro khí hậu. Dựa trên các phân tích phân tích sâu rộng, nghiên cứu gợi ý những tác động hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách, nhà kinh tế và các cơ quan chính phủ.
>> Xem chi tiết: Nguyen-Thi-Lan H, Fahad S, Nguyen-Anh T, Tran-Thi-Thu H, Nguyen-Hong C, To-The N (2021), “Assessment of farm households’ perception, beliefs and attitude toward climatic risks: A case study of rural Vietnam,” PLoS ONE 16(12): e0258598.
//journals.plos.org/plosone/article?id=10.1371/journal.pone.0258598
>>> Nhóm tác giả:
Trong đó, tác giả thuộc Trường ĐHKT - ĐHQGHN:
TS. Nguyễn Thị Lan Hương hiện là giảng viên Khoa Kinh tế Chính trị, Trường bet365 ee - ĐHQGHN. Hướng nghiên cứu chính của TS. Nguyễn Thị Lan Hương thuộc về lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, kinh tế hành vi, kinh tế môi trường... Tính đến nay, TS. Nguyễn Thị Lan Hương đã có 6 bài báo được xuất bản trên các tạp chí thuộc danh mục ISI/Scopus. | |
ThS. Nguyễn Anh Tuấn - Giảng viên Khoa Kinh tế Chính trị, Trường bet365 ee - ĐHQGHN. ThS. Nguyễn Anh Tuấn tốt nghiệp cử nhân ngành Quản trị Kinh doanh tiên tiến tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam năm 2014 và tốt nghiệp ThS. chuyên ngành Kinh tế Nông nghiệp, Trường Đại học Tây Úc năm 2019. ThS. Nguyễn Anh Tuấn đã từng công tác tại Khoa Kinh tế và Phát triển Nông thôn, Học viện Nông Nghiệp Việt Nam, đạt học bổng Chính phủ Úc (2018 - 2020). ThS. Nguyễn Anh Tuấn đã có hơn 1 chục bài báo đăng trên tạp chí trong nước, 6 bài báo đăng tạp chí ISI/Scopus uy tín như Land Use Policy; Environment, Development and Sustainability; Journal of Agribusiness in Developing and Emerging Economies; Asia-Pacific journal of Regional Science; Applied Science. | |
TS. Tô Thế Nguyên - Phó trưởng Khoa Kinh tế Chính trị, Trường bet365 ee - ĐHQGHN. TS. Tô Thế Nguyên tốt nghiệp Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Strasbourg (CH Pháp) năm 2016. Hướng nghiên cứu chính của ông gồm kinh tế nông nghiệp, đánh giá chính sách nông nghiệp, chính sách lương thực, kinh tế phát triển, kinh tế môi trường và tài nguyên… TS. Tô Thế Nguyên đã tham gia vào các lĩnh vực nghiên cứu từ năm 2001 với tư cách là trưởng nhóm Đa dạng hóa sản xuất nông hộ ở Đồng bằng sông Hồng, Việt Nam do JICA tài trợ. TS. Tô Thế Nguyên đã xuất bản 10 bài báo quốc tế trên các báo uy tín như Agricultural Economics; Land Use Policy; Environment, Development and Sustainability; European Review of Agricultural Economics; Journal of the Asia Pacific Economy… |
Nghiên cứu “Would external debts promote sustainable development in emerging and low-income countries?” của nhóm tác giả Lưu Ngọc Hiệp, Lưu Hạnh Nguyên ...
Chi tiếtThị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam đã tăng trưởng mạnh nhờ các chính sách mới, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế so với các nước phát triển trong khu ...
Chi tiếtCác doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ (MSMEs) với hơn nửa triệu người lao động chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực kinh tế tư nhân toàn cầu. Một câu hỏi quan ...
Chi tiếtSự tác động, rủi ro và công bố bền vững của biến đổi khí hậu đã thu hút sự quan tâm ngày càng tăng trong lĩnh vực kinh tế và tài chính nhằm hướng tới Mục ...
Chi tiếtCác mô hình và yếu tố dự báo tham nhũng theo không gian và thời gian là gì? Các nghiên cứu hiện tại đã tiếp cận câu hỏi này thông qua thống kê mô tả hoặc ...
Chi tiếtNhằm trả lời câu hỏi “Chánh niệm ảnh hưởng như thế nào đến ý định mua hàng của khách hàng trong bối cảnh kết nối vận tải trực tuyến tại Việt Nam?”, nghiên ...
Chi tiếtSự cân đối giữa lợi nhuận và rủi ro của cổ phiếu (tức tỷ lệ Sharpe - SR) là một chỉ số quan trọng để tối ưu hóa danh mục đầu tư. Trong những năm qua, yếu ...
Chi tiếtViệc xây dựng các doanh nghiệp công nghiệp trở nên cần thiết hơn trong những năm gần đây. Điều quan trọng là các nhà quản lý dự án phải ước tính toàn bộ ...
Chi tiết