Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về tác động kinh tế của luật lao động trên toàn cầu, nhưng số lượng các nghiên cứu về Việt Nam lại ít một cách đáng ngạc nhiên. Bài báo của nhóm tác giả Nguyễn Kiều Dung, Trần Thị Vân Anh và Nguyễn Đức Thành đã cung cấp bằng chứng đầu tiên về mối liên hệ giữa luật lao động và các tác động khác nhau tới thị trường lao động Việt Nam. Bài báo mang tên “Social insurance reform and absenteeism in Vietnam” được công bố trên tạp chí International Journal of Social Welfare Vol. 30, Iss. 2 (2021), đóng góp vào các nghiên cứu chung về chủ đề các quy định bảo vệ việc làm (EPL) sử dụng bối cảnh Việt Nam, đồng thời cung cấp thông tin chi tiết về những nỗ lực của Việt Nam trong cải cách hệ thống pháp luật lao động.
Nhóm nghiên cứu đã xem xét cung lao động, thu nhập và bảo trợ xã hội được điều chỉnh như thế nào khi dưới tác động của cải cách hợp đồng lao động trong khuôn khổ Bộ luật Lao động 2012. Nghiên cứu sử dụng số liệu từ ba đợt khảo sát điều tra lực lượng lao động Việt Nam để xem xét các tác động trung hạn và ngắn hạn của cải cách. Phương pháp khác biệt trong sự khác biệt (DID) và mô hình tác động cố định được sử dụng trong nghiên cứu. Nhìn chung, nghiên cứu cho thấy việc thay đổi Luật Lao động có tác động đáng kể đến số giờ làm việc, số lần nghỉ làm, mức trợ cấp hàng tháng và tiền thưởng mà người lao động có hợp đồng nhận được. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng đến lương tháng, thù lao làm thêm giờ và các khoản phụ cấp khác cũng như mức bảo trợ xã hội lại không rõ ràng trong ngắn hạn.
Trong bối cảnh sự ra đời của Bộ luật Lao động 2012 được dự đoán có ảnh hưởng lớn đến thị trường lao động Việt Nam, bài báo này được xem là công trình đầu tiên xem xét toàn diện ảnh hưởng của cải cách Bộ luật Lao động từ góc độ kinh tế. Cụ thể, bài báo tìm hiểu các tác động ngắn hạn và trung hạn của Bộ luật Lao động đến thị trường lao động cũng như coi hợp đồng lao động là kênh dẫn chính để Bộ luật ảnh hưởng đến phúc lợi của người lao động.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng cải cách Bộ luật Lao động ảnh hưởng đến tất cả 15 yếu tố được điều tra bao gồm các yếu tố liên quan đến hợp đồng lao động, cung lao động, thu nhập và mức bảo trợ xã hội. Số hợp đồng lao động được ký kết bằng văn bản gia tăng cùng với việc ban hành Bộ luật Lao động. Yếu tố giờ làm việc hàng tuần bị ảnh hưởng tiêu cực, trong khi yếu tố tiền lương và phụ cấp hàng tháng có phản ứng tích cực đối với cải cách. Ngoài ra, các yếu tố về khả năng tiếp cận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và chế độ nghỉ phép hàng năm được hưởng lương được cải thiện sau khi Bộ luật được ban hành. Liên quan đến ảnh hưởng trung hạn thì yếu tố về thời gian làm việc của người lao động có hợp đồng bị ảnh hưởng bất lợi, tuy nhiên yếu tố nghỉ làm thay đổi tích cực hơn. Mặt khác, yếu tố lương tháng bị giảm trong khi yếu tố trợ cấp tháng tăng lên sau cải cách. Việc tăng trợ cấp hàng tháng có thể được giải thích do thù lao làm thêm giờ tăng, đặc biệt đối với những người có hợp đồng trung hạn. Ngoài ra, các ước tính của nhóm tác giả cũng chỉ ra tác động tiêu cực đến số lượng tham gia bảo hiểm xã hội của những người có hợp đồng xác định thời hạn và tác động tích cực đến tỷ lệ nghỉ việc có lương của những người có hợp đồng trung và dài hạn. Nghiên cứu cũng xem xét tác động ngắn hạn của luật mới bằng cách sử dụng dữ liệu bảng của năm 2013. Nhóm tác giả sử dụng mô hình tác động cố định để kiểm tra độ chắc chắn của các ước tính DID. Kết quả nghiên cứu cho thấy yếu tố liên quan tới người lao động có hợp đồng không xác định thời hạn chịu tác động mạnh từ việc ban hành Bộ luật mới nhưng yếu tố về mức lương lại không chịu tác động. Ngoài ra, các yếu tố về phụ cấp và khả năng được nhận tiền thưởng của người lao động có hợp đồng bị ảnh hưởng tiêu cực. Tuy nhiên, tác động của cải cách đến yếu tố được hưởng chế độ bảo trợ xã hội lại không rõ ràng.
Bài báo đóng góp vào các nghiên cứu về kinh tế lao động và các lĩnh vực chính sách y tế theo một số phương diện. Thứ nhất, đây là nghiên cứu đầu tiên nhằm điều tra mối liên hệ giữa việc thay đổi Luật bảo hiểm xã hội và việc tham gia thị trường lao động sử dụng bộ dữ liệu Việt Nam. Hiện còn rất ít nghiên cứu khám phá mối liên hệ này tại khu vực châu Á. Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu đo lường ảnh hưởng của bảo hiểm y tế ở Việt Nam trên nhiều khía cạnh (ví dụ như tình trạng sức khỏe, chi tiêu cho y tế, sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe và tiêu dùng gia đình), tuy nhiên hiện còn rất ít nghiên cứu về ảnh hưởng tới nguồn cung lao động. Hệ thống bảo hiểm xã hội ở Việt Nam đã được đề cập trong một số công trình trước đây, nhưng theo hiểu biết của chúng tôi hiện không có công trình nào tập trung vào trợ cấp ốm đau theo khuôn khổ cải cách luật bảo hiểm xã hội mới. Thứ hai, việc phân chia mối liên kết theo nhóm giới tính, thu nhập và thời hạn lao động là một điểm mới khác biệt của chúng tôi so với những công trình tương tự trước đó. Điều này đã cho phép nhóm tác giả khám phá các cơ chế nằm dưới các hành vi làm việc của nhóm điều tra. Thứ ba, sự kết hợp giữa DID và PSM để giảm sai lệch cũng là một ưu điểm của nghiên cứu này. Sự kết hợp này đã được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu về cải cách bảo hiểm y tế, nhưng nhóm tác giả tìm thấy rất ít bằng chứng về việc sử dụng biện pháp này trong các nghiên cứu về cải cách bảo hiểm ốm đau. Kết quả nghiên cứu này cung cấp thông tin chi tiết về những thay đổi gần đây trong chính sách bảo hiểm xã hội, giúp nâng cao chất lượng của những chính sách này. Đây cũng là một đóng góp nhằm hiện thực hóa Nghị quyết số 28-NQ/TW về Đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội đã được thông qua.
Bên cạnh đó, nghiên cứu đã đóng góp vào các nghiên cứu chung về chủ đề các quy định bảo vệ việc làm (EPL) sử dụng bối cảnh Việt Nam. Nghiên cứu cung cấp thông tin chi tiết về những nỗ lực của Việt Nam trong cải cách hệ thống pháp luật lao động. Nhóm tác giả cho rằng để cải thiện các điều kiện của thị trường lao động và quan hệ lao động thì Chính phủ nên xây dựng một kế hoạch tổng thể dài hạn để làm cơ sở xây dựng các luật và chính sách cụ thể trong ngắn hạn và trung hạn. Các chỉ số cụ thể về phúc lợi của người lao động và lợi ích của doanh nghiệp cũng cần được đưa vào kế hoạch tổng thể để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đánh giá chính sách. Các hàm ý từ nghiên cứu này đã làm rõ tác động của cải cách nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của các chính sách trong tương lai.
>> Xem chi tiết: Kieu-Dung Nguyen,Van-Anh Thi Tran, Duc-Thanh Nguyen, “,” International Journal of Social Welfare, Vol. 30, Iss. 2, April 2021, 193-207.DOI: 10.1111/ijsw.12449
>> Nhóm tác giả:
1. Nguyễn Kiều Dung: Trường Đại học Duy Tân
2. Trần Thị Vân Anh: Trường bet365 ee - ĐHQGHN
3. Nguyễn Đức Thành: Nguyên Giám đốc Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, Trường bet365 ee - ĐHQGHN
Trong đó, tác giả thuộc Trường ĐHKT - ĐHQGHN:
TS. Trần Thị Vân Anh hiện là giảng viên chính thuộc Khoa Ngân hàng Tài chính, Trường bet365 ee - Đại học Quốc gia Hà Nội. TS. Vân Anh nhận bằng Thạc sĩ và bằng Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Tổng hợp Hiroshima, Nhật Bản (2009). Bà đã trải qua nhiều năm làm việc, nghiên cứu và giảng dạy trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng cũng như tham gia một số dự án tư vấn, nghiên cứu với các tổ chức tài chính quốc tế trong và ngoài nước như Ngân hàng Thế giới, UNDP, Bộ Tài chính. Lĩnh vực nghiên cứu chính của TS. Vân Anh là tài chính ngân hàng, tài chính công và kinh tế lao động. Bà đã có một số bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành trong nước và quốc tế. |
Nghiên cứu “Would external debts promote sustainable development in emerging and low-income countries?” của nhóm tác giả Lưu Ngọc Hiệp, Lưu Hạnh Nguyên ...
Chi tiếtThị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam đã tăng trưởng mạnh nhờ các chính sách mới, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế so với các nước phát triển trong khu ...
Chi tiếtCác doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ (MSMEs) với hơn nửa triệu người lao động chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực kinh tế tư nhân toàn cầu. Một câu hỏi quan ...
Chi tiếtSự tác động, rủi ro và công bố bền vững của biến đổi khí hậu đã thu hút sự quan tâm ngày càng tăng trong lĩnh vực kinh tế và tài chính nhằm hướng tới Mục ...
Chi tiếtCác mô hình và yếu tố dự báo tham nhũng theo không gian và thời gian là gì? Các nghiên cứu hiện tại đã tiếp cận câu hỏi này thông qua thống kê mô tả hoặc ...
Chi tiếtNhằm trả lời câu hỏi “Chánh niệm ảnh hưởng như thế nào đến ý định mua hàng của khách hàng trong bối cảnh kết nối vận tải trực tuyến tại Việt Nam?”, nghiên ...
Chi tiếtSự cân đối giữa lợi nhuận và rủi ro của cổ phiếu (tức tỷ lệ Sharpe - SR) là một chỉ số quan trọng để tối ưu hóa danh mục đầu tư. Trong những năm qua, yếu ...
Chi tiếtViệc xây dựng các doanh nghiệp công nghiệp trở nên cần thiết hơn trong những năm gần đây. Điều quan trọng là các nhà quản lý dự án phải ước tính toàn bộ ...
Chi tiết